Huyền Trân Công Chúa và cuộc hôn nhân lịch sử với vua Chế Mân

Huyền Trân Công Chúa và cuộc hôn nhân lịch sử với vua Chế Mân

Giới thiệu Huyền Trân Công Chúa – biểu tượng của sự hy sinh vì đất nước

Huyền Trân Công Chúa (sinh năm 1287 mất năm 1340) là con gái vua Trần Nhân Tông, em gái vua Trần Anh Tông, sống vào cuối thế kỷ XIII – đầu thế kỷ XIV. Với vẻ đẹp và khí chất cao quý, bà đã đi vào lịch sử dân tộc như một biểu tượng của lòng hy sinh vì nghĩa lớn, đặc biệt qua cuộc hôn nhân với vua Chế Mân của vương quốc Champa.

Huyền Chân Công Chúa
Huyền Chân Công Chúa

 Vua Chế Mân là ai?

Chế Mân (tên thật: Jaya Simhavarman III) là vị vua tài ba của Champa, trị vì từ năm 1288 đến 1307. Trong bối cảnh Đại Việt và Champa thường xuyên xung đột, ông lựa chọn cách thiết lập bang giao để giữ vững hòa bình và phát triển.

Vua Chế Mân
Vua Chế Mân

Cuộc hôn nhân chính trị giữa Huyền Trân và Chế Mân

Năm 1293, vua Trần Nhân Tông đã nhường ngôi cho con là Trần Anh Tông sau khi đánh thắng quân Mông Nguyên. Để chúc mừng vua Trần Anh Tông lên ngôi, vua Chiêm Thành khi đó tên là Chế Mân sai sứ sang chúc mừng.

Đến tháng 3 năm 1301, Thượng hoàng Trần Nhân Tông bây giờ đang tu hành ở Yên tử đã thực hiện một chuyến viễn du đến Chiêm Thành. Tại đây, ông được vua Chiêm Thành là Chế Mân đón tiếp nồng hậu. Để thắt chặt mối quan hệ giao bang đang trên đà tốt đẹp, tránh cho dân Đại Việt khỏi những trận cướp phá của Chiêm Thành, vua đã hứa gả con gái là công chúa Huyền Trân cho Chế Mân, mặc dù Chế Mân đã có chính thất là Vương Phi Tapasi, người Java (Indonesia ngày nay).

Sau đó, đến năm 1305, vua Chế Mân sai sứ là Chế Bồng Đài và hơn 100 người đem vàng, bạc, hương liệu quý, vật lạ đến làm lễ cầu hôn. Nhiều quan lại nhà Trần phản đối, chỉ có Văn Túc vương Trần Đạo Tái và Nhập nội hành khiển Trần Đắc Chung chủ trương tán thành.

Không muốn làm hỏng tình hòa hiếu giữa hai nước, mặc cho những lời chê bai chỉ trích, vua Trần Anh Tông đã nhận lời gả em gái Huyền Trân công chúa cho vua Chiêm với điều kiện Chế Mân dâng phần đất của hai châu Ô và châu Lý làm vật sính lễ. Vua Chế Mân đã đồng ý.

Năm 1306, vua Chế Mân cầu hôn Huyền Trân Công Chúa và dâng hai châu Ô, Lý – vùng đất ngày nay thuộc Quảng Trị và Thừa Thiên Huế – làm sính lễ. Triều đình nhà Trần đồng ý, coi đây là cuộc hôn nhân ngoại giao quan trọng, giúp:

  • Mở rộng lãnh thổ Đại Việt về phía Nam.
  • Tạo dựng mối bang giao hòa bình với Champa.
  • Hạn chế chiến tranh, tiết kiệm nhân lực và tài lực quốc gia.

Cái chết của Chế Mân và nguy cơ Huyền Trân bị tuẫn táng

Năm Đinh Mùi 1307, vào tháng 5, quốc vương Chế Mân băng hà. Nghĩa là chỉ một năm sau khi cuộc liên hôn giữa Đại Việt và Chiêm Thành diễn ra. Thế tử Đa Đa sai sứ thần Bảo Lộc Kê sang dâng voi trắng và có thể cũng để báo tang sự việc này. Theo tục lệ Chiêm Thành, vua băng hà thì hoàng hậu phải lên giàn lửa để hỏa thiêu.

Lo ngại Huyền Trân sẽ bị tuẫn táng, vua Trần Anh Tông đã lập kế hoạch giải cứu công chúa.

Triều đình cử Trần Khắc Chung dẫn đầu đoàn sứ giả, lấy lý do viếng tang, thực chất là đưa công chúa trở về Đại Việt.

Muốn chạy rút bằng đường biển, Trần Khắc Chung đã thuyết phục phía chủ tang đưa Huyền Trân từ kinh đô Đồ Bàn ra cửa bể là cảng Thị Nại ở vịnh Quy Nhơn ngày nay, lấy cớ là để đón linh hồn Chế Mân về chiêu hồn rồi sau lễ thiêu sẽ cùng hồn hoàng hậu lên trời.

Trần Khắc Chung thành công, cứu được công chúa và đưa xuống thuyền, đưa công chúa về Đại Việt bằng đường biển, cuộc hải hành này kéo dài tới gần một năm, có ý kiến cho rằng hai người đã tư thông với nhau thì mới mất nhiều thời gian đến như vậy.

Hành trình trở về và nghi án tình cảm Trần Khắc Chung – Huyền Trân

Truyền thuyết kể rằng Trần Khắc Chung và Huyền Trân từng có tình cảm trước đó. Trên đường về nước, họ lênh đênh trên biển suốt một năm, dấy lên nghi vấn về mối quan hệ mờ ám giữa hai người.

Tuy nhiên, các nhà sử học hiện đại khẳng định:

  • Không có chứng cứ lịch sử xác thực nghi án tình cảm.
  • Thời gian hành trình dài có thể do lý do địa lý, chính trị, thời tiết hoặc để tránh sự truy bắt của người Chăm.

Do đó, câu chuyện này có thể là truyền thuyết dân gian, không phản ánh đúng sự thật lịch sử.

Huyền Trân Công Chúa sau khi trở về Đại Việt

Sau khi trở về, Huyền Trân không tái giásống ẩn dật tại núi Thiên Thai (Huế). Theo nhiều ghi chép và truyền thuyết, bà đã tu hành tại đây cho đến cuối đời.

Mùa xuân năm 1309, sau hơn một năm về lại Thăng Long, Huyền Trân công chúa vẫn kiệt sức và chán nản cõi đời nên quyết định bỏ hết lầu son gác tía theo cha quy y nơi cửa Phật, làm bạn với câu kinh tiếng kệ tại núi Trâu Sơn (nay thuộc Bắc Ninh) dưới sự chứng minh của Quốc sư Bảo Pháp và được ban pháp danh là Hương Tràng.

Đến năm 1311, bà về lập am riêng dưới chân núi Hổ thuộc làng Hổ Sơn, huyện Thiên Bản (nay là tỉnh Nam Định) để tu hành. Am này về sau được dựng thành chùa, tức chùa Nộn Sơn (Quảng Nghiêm Tự ngày nay).

Trong suốt thời gian tu hành, bà đã giúp đỡ dân các vùng lân cận dựng làng lập ấp. Tương truyền bà đã lập ra 36 ngôi làng ở huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình. Vì vậy cho đến nay, bà vẫn là một trong ba vị Thành hoàng được thờ tại xã An Ninh (làng Dành – nay thuộc huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình).

Năm 1340, bà bệnh rồi qua đời tại chùa Nộn Sơn, dân chúng quanh vùng thương tiếc, tôn bà là Thần Mẫu và lập đền thờ cạnh chùa Nộm Sơn.

Đến thời Nguyễn, bà được sắc phong là Trai tĩnh Trung đẵng thần vì có nhiều linh ứng và có công trong việc giữ nước giúp dân, đền thờ của bà được lập trên núi Ngũ Phong ở Huế.

Tôn vinh Huyền Trân: Biểu tượng văn hóa và tâm linh

Ngày nay, Đền Huyền Trân Công Chúa được xây dựng tại Huế, nơi tổ chức lễ hội tưởng niệm bà vào mùng 9 – 10 tháng Giêng âm lịch hằng năm. Nhân dân thờ phụng bà không chỉ vì sắc đẹp hay truyền thuyết, mà bởi:

  • Công lao lớn trong việc mở mang bờ cõi Đại Việt.
  • Sự hy sinh cá nhân cho đại cuộc quốc gia.
  • Hình ảnh người phụ nữ “vì nước quên thân” qua mọi thời đại.

Huyền Trân Công Chúa không chỉ là nhân vật lịch sử, mà còn là biểu tượng văn hóa, tâm linh và chính trị sâu sắc của dân tộc Việt. Cuộc đời bà gắn liền với một giai đoạn quan trọng trong quá trình Nam tiến của Đại Việt. Dù bao lời truyền thuyết bủa vây, điều không thể phủ nhận là:

Bà xứng đáng được tôn vinh là người phụ nữ đã góp công lớn trong lịch sử mở cõi Việt Nam – bằng con đường hòa bình, thông minh và nhân văn.

5/5 - (2 bình chọn)

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *